Tâm lí học là một ngành
khoa học
Nghiên cứu khoa học nói chung và tâm lí học nói riêng đều
mang bốn mục đích cơ bản: mô tả, giải thích, dự báo và kiểm soát.
(1)
Mô
tả: nhà khoa học bắt đầu với những quan sát thận trọng của vấn đề.
Ví dụ: Trong nghiên cứu Kaiser Family
Foundation (Rideout, Foehr, & Robert, 2010) mô tả việc sử dụng các phương
tiện truyền thông với mẫu hơn 2000 người trong độ tuổi 8-18. Trong đó, một phần
của nghiên cứu cho thấy phần trăm sử dụng thời gian nghỉ bằng các hoạt động giải
trí trên máy vi tính của người tham gia.
(2)
Giải
thích: nhà nghiên cứu đi tìm lời giải cho hành vi.
Ví dụ: Nghiên cứu của Elliot và
Niesta (2008) chỉ ra rằng đàn ông nghĩ những người phụ nữ mặc trang phục màu đỏ
thường quyến rũ hơn những người phụ nữ mặc trang phục khác màu. Như vậy, đâu là
lời giải thích hợp lí cho trường hợp này? Liệu chính màu đỏ gây sự chú ý đối với
đàn ông? Hay liệu những người phụ nữ quyến rũ thường có xu hướng lựa chọn phục
trang có màu đỏ? Có nhiều giả thuyết được đưa ra và nhiệm vụ của tâm lí học là
cố gắng giải đáp, đưa ra lời giải thích của hành vi dựa trên nghiên cứu khoa học.
(3)
Dự
báo: dự báo được đưa ra dựa vào mối liên quan giữa hai sự kiện.
Ví dụ: Câu hỏi nghiên cứu là liệu những
người bị kiện ra tòa mà có ngoại hình ưa nhìn thì có khả năng nhận được nhiều
khoan hồng hơn những người có ngoại hình không hấp dẫn hay không? Ví dụ, nếu
câu trả lời là có, thì ta có thể đưa ra dự báo cho trường hợp tương tự ở những
lần sau. Tuy nhiên, luôn có câu trả lời khác trong mỗi trường hợp, vì vậy dự đoán
trong nghiên cứu không mang tính chính xác toàn phần.
(4)
Kiểm
soát: một trong những mục đích quan trọng của nghiên cứu tâm lí học là điều chỉnh
hành vi (tăng hay giảm hành vi)
Ví dụ: Mức độ trầm cảm của sinh viên
Á Âu cao hơn sinh viên chủng tộc da trắng (Young, Fang & Zisook, 2010). Từ
đó đưa ra các can thiệp về chương trình sức khỏe tinh thần cho sinh viên.
Tâm lí học đáp ứng được các tiêu chí, nguyên tắc trong nghiên
cứu khoa học: thực nghiệm, tái lặp, tính khách quan, tính minh bạch, tính phản
nghiệm, nhất quán trong lập luận.
(1)
Tính
thực nghiệm: là phương pháp nền tảng trong nghiên cứu tâm lý. Thông tin phải dựa
trên quan sát thực tiễn, thu thập dữ liệu, đánh giá… Có thể các câu hỏi, định
nghĩa trong nghiên cứu tâm lí mang tính trừu tượng (hạnh phúc, tình yêu, thành
công…) nhưng các nhà nghiên cứu đều cố gắng đưa những suy nghĩ trừu tượng trên
thành các dạng hành vi hay các biểu hiện mà có thể quan sát được, thực nghiệm
được. Ví dụ: nghiên cứu về tình yêu của người A dành cho người B, có thể thông
qua đo nhịp tim khi người A khi nhìn thấy người B, hoặc đưa ra bảng câu hỏi về
mức độ vui vẻ của người A khi bên cạnh người B…
(2)
Có
thể lặp lại: một nghiên cứu có giá trị và mang tính ứng dụng phải là nghiên cứu
mà có thể tái thực hiện. Nghiên cứu của Asch (1955) về áp lực của nhóm cho thấy
1/3 số người tham gia thực nghiêm có xu hướng trả lời sai để có câu trả lời
tương đồng với nhóm. Dựa vào nghiên cứu của Asch, rất nhiều nhà nghiên cứu đã
tái lặp nghiên cứu về áp lực nhóm, trong đó có Daniel và Michael (2011) nghiên
cứu về áp lực nhóm của trẻ ở trường mầm non với phương pháp bằng tranh vẽ.
(3)
Tính
khách quan: phương pháp đo lường phải đồng nhất.
(4)
Tính
minh bạch: tất cả các nhà thực nghiệm có liên quan đều biết về nghiên cứu.
(5)
Tính
phản nghiệm: một nghiên cứu tốt là nghiên cứu có tính phản nghiệm. Nghiên cứu
đó có thể được tiếp tục củng cố hoặc có thể được chứng minh là sai bởi dữ liệu
(Popper, 2002). Ví dụ nếu một nghiên cứu được kiểm chứng là sai, thì nhờ đó
khoa học có thể thúc đẩy và phát triển lên bằng những quan điểm mới khác.
(6)
Nhất
quán trong lập luận: một quan điểm được lập ra và duy trì trong suốt nghiên cứu.
Trích dẫn
Asch, S. E. (1955, November). Opinionsand social pressure.
Scientific American,pp. 31–35.
Daniel, B. M., Michael, T. (2011). Child Development. Conformity
to peer pressure in preschool children, 82(6), 1759 – 1767.
Elliot, A. J., & Niesta, D. (2008). Romantic red: Red
enhances men’s attraction to women.
Journal of Personality and Social Psychology, 95, 1150–1164.
Popper, K. (2002). The
logic of scientifi c discovery.
New York, NY: Routledge
Rideout, V. J., Foehr, U. G., & Roberts, D. F. (2010).
Generation M2: Media in the Lives of 8- to 18-Year-Olds. Menlo Park, CA: Henry
J. Kaiser Family Foundation. Retrieved from http: //kaiserfamilyfoundation.fi
les .wordpress.com/2013/04/8010 .pdf
Young, C., Fang, D., & Zisook, S. (2010). Depression in
Asian-American and Caucasian undergraduate students. Journal of Aff ective
Disorders, 125, 379–382. doi:10.1016/j.jad.2010.02.124